Chế độ dinh dưỡng phòng loét do tì đè

30/04/2021 07:41

Loét do tì đè là một vùng tổn thương cục bộ trên da và/hoặc mô bên dưới, thường là trên xương, là kết quả của trọng lượng cơ thể lên vùng da nhất định hoặc có sự kết hợp với ma sát. Loét do tì đè có thể diễn biến trong vòng 2 đến 6 giờ khi dòng máu mao mạch bình thường bị cản trở, dẫn đến hoại tử môNhững người có bệnh đi kèm hoặc bị bệnh nặng dễ bị loét tì đè hơn với những người không có tiền sử bệnh lý nền.

Phân loại loét do tì đè

 

Giai đoạn I: Da nguyên vẹn với vùng khu trú mẩn đỏ, thường là nổi rõ trên cục xương. Những vùng da tối có thể có hiện tượng nhợt nhạt.

 

Giai đoạn II: Mất một phần độ dày của lớp biểu bì, biểu hiện như: một vết loét nông, hở với vết thương màu đỏ hồng, mà không bị bong tróc. Cũng có thể biểu hiện dưới dạng vết phồng rộp chứa đầy huyết thanh hoặc các mụn nước vỡ.

 

Giai đoạn III: Mất toàn bộ độ dày của mô. Mỡ dưới da có thể nhìn thấy nhưng xương, gân hoặc cơ thì không. Có thể có hiện tượng bong tróc nhưng không che lấp được độ sâu của mô bị mất. (Độ sâu của vết loét tỳ đè giai đoạn III thay đổi tùy theo vị trí giải phẫu. Sống mũi, tai, chẩm vết loét ở giai đoạn III có thể nông. Ngược lại, các khu vực lượng mỡ đáng kể có thể phát triển thành loét tì đè giai đoạn III rất sâu).

 

Giai đoạn IV: Mất toàn bộ độ dày của mô với xương, gân hoặc cơ lộ ra ngoài  hoặc sờ thấy trực tiếp.

 

I. Đánh giá dinh dưỡng và chẩn đoán
 

Các cuộc khảo sát báo cáo tỷ lệ lớn loét tì đè ở bệnh nhân nhập viện (3% đến 4%) và ở những người già trên 70 tuổi (20% đến 33%) đồng hành với tỷ lệ cao suy dinh dưỡng (tương ứng 30% đến 50% và 19% đến 59%). Mặc dù dinh dưỡng kém thường được coi là một yếu tố nguy cơ cho tiến triển của loét tì đè, vai trò chính xác của tình trạng dinh dưỡng vẫn còn nhiều tranh cãi. Nguyên nhân phổ biến của loét tì đè bao gồm hạn chế vận động, rối loạn ý thức không kiểm soát, bệnh mạch máu ngoại vi; tất cả gây ra tình trạng kém lưu thông và thiếu oxy đến các mô. Các tình trạng khác khiến bệnh nhân có nguy cơ phát triển loét tì đè bao gồm: bệnh đái tháo đường; béo phì; bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính; nhiễm trùng huyết; bệnh thận, gan hoặc tim mãn tính hoặc giai đoạn cuối; các bệnh liên quan đến ức chế miễn dịch; gãy xương hông và tổn thương tủy sống. Các loại thuốc có thể góp phần vào nguy cơ phát triển vết loét do tì đè bao gồm: thuốc chống vận động (ví dụ:thuốc chống trầm cảm và thuốc ngủ), thuốc ức chế miễn dịch, steroid, xạ trị, hóa trị và thận lọc máu. Suy dinh dưỡng, giảm cân không chủ ý (hơn 5% trong 1 tháng; 7,5% trong 3 tháng; hoặc 10% trong 6 tháng), cho dù thứ phát do kém ăn hoặc một quá trình bệnh khác, có nguy cơ tổn thương mô và vết thương kém lành.

II. Can thiệp dinh dưỡng
 

Những bệnh nhân loét tì đè nên nhận được cung cấp dinh dưỡng đầy đủ, bao gồm cả năng lượng,protein, chất lỏng và vitamin và khoáng chất. Nên xem xét lượng dịch tiết từ vết thương để điều chỉnh chế độ dinh dưỡng cho người bệnh.

Khuyến cáo chung cho những người bị loét tì đè là 30 đến 35 kcal/kg/ngày, hỗ trợ dinh dưỡng đầy đủ tại30 kcal/kg trọng lượng cơ thể thực tế mỗi ngày là một yếu tố thúc đẩy cho việc chữa lành vết loét áp lực ở giai đoạn III và IV. Khuyến nghị tăng mức năng lượng lên 35 đến 40 kcal/kg mỗi ngày cho những người nhẹ cân hoặc giảm cân không mong muốn.

 

Bổ sung đủ protein là cần thiết trong tất cả các giai đoạn chữa lành vết thương. Tuy nhiên, nếu không được cung cấp đầy đủ năng lượng, protein sẽ được sử dụng như một nguồn năng lượng thay thế. Lượng protein hàng ngày từ 1,25 đến 1,5g/kg trọng lượng cơ thể thực tế từ các nguồn thực phẩm giàu protein giá trị sinh cao.

Cung cấp lượng nước đầy đủ mỗi ngày để giữ cho bệnh nhân đủ nước và ngăn ngừa mất nước. Lượng chất lỏng tối ưu là 30 đến 35 mL/kg trọng lượng cơ thể thực tế hoặc tối thiểu là 1.500 mL/ngày. Việc bổ sung chất lỏng qua các bữa ăn chính thường là không đầy đủ, do đó, tích cực hỗ trợ lượng chất lỏng cho bệnh nhân qua các bữa phụ. Ngoài ra, bệnh nhân trong phòng điều hòa có thể có nhiều nguy cơ bị mất nước hơn và cần được đánh giá để có nhu cầu chất lỏng lớn hơn.

III. Một số chất bổ sung đặc biệt
 

Vitamin: Tất cả các loại vitamin đều cần thiết trong việc chữa lành vết thương; tuy nhiên, vitamin A, E, C và K (đặc biệt là vitamin C và A) được chú ý nhiều nhất.

 

Khoáng chất: Các nguyên tố vi lượng có trong cơ thể, kẽm, đồng và sắt, có mối quan hệ chặt chẽ nhất để chữa lành vết thương.

 

Bổ sung dinh dưỡng qua ống thông: Nếu bệnh nhân thường xuyên tiêu thụ dưới 50% nhu cầu năng lượng và protein ước tính, nhu cầu bổ sung qua đường uống hoặc hỗ trợ dinh dưỡng qua đường tiêu hóa (ống thông). Nếu bệnh nhân được cho ăn bằng ống thông, phải cung cấp tối thiểu 100% năng lượng, protein và các vitamin và khoáng chất theo RDA (DRI) của bệnh nhân. Bởi vì hiệu quả của các công thức đường ruột chuyên biệt để chữa lành vết thương có thể không đạt được tối đa như việc nuôi dưỡng bằng đường miệng.

 

Axit amin: Các axit amin arginine và glutamine đã được nghiên cứu về vai trò có thể có của chúng trong việc tăng cường làm lành vết thương. Việc bổ sung giúp hỗ trợ tối đa quá trình liền vết thương của người bệnh.

 

Ths.Bs Đỗ Tất Thành – Trưởng khoa Dinh dưỡng, Bệnh viện HN Việt Đức

Tagged in: Tags: